Dân tộc Xơ Đăng

22/02/2019 10329 0

Tên tự gọi: Xơ Đăng

Tên gọi khác: Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.

Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.

Dân số: 169.501 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)

Ngôn ngữ: Tiếng Xơ - đăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba-na, Gié-Triêng.

Nguồn gốc lịch sử: Người Xơ-đăng là cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Địa bàn cư trú: Người Xơ-đăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh.

Đặc điểm kinh tế: Làm rẫy trồng lúa đóng vai trò chủ đạo. Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm. Ngoài lúa, còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ. Nghề dệt vải, nghề rèn, đan lát phát triển ở nhiều vùng.

Phong tục tập quán

Ăn: Người Xơ-đăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; thích uống rượu cần, hút thuốc lá.

: Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng).

Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Gùi ở các nhóm Xơ-đăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.

Hôn nhân: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.

Đồng bào Xơ Đăng vẫn duy trì chế độ gia đình nhiều thế hệ ở trong một ngôi nhà sàn dài. Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm đi theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam có chữ đầu là A hay U, còn nữ là Y. Trai gái lớn lên, được tự do  tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới hỏi của đồng bào Xơ Đăng khá  đơn giản và khi cưới, vợ chồng có thể ở bên nhà trai hoặc nhà gái.

Tang ma:  Ngùi chết được "chia của", bỏ trong tài độc mộc, chôn trong bãi mộ chung của làng, không có lễ bỏ mả.

Lễ hội: Các lễ tết gắn liền chu kỳ sản xuất nông nghiệp và đời người. Tiêu biểu là lễ cúng thần nước

Tín ngưỡng: Thờ đa thần (thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... ). Họ có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.

Trang phục: Trang phục truyền thống của đồng bào Xơ Đăng chủ yếu màu đen, nam giới đóng khố, cởi trần. Khố là một tấm vải dài, khổ hẹp luồn qua háng, quấn quanh thắt lưng, thả mành mành hai đầu buông dài trước và sau đến gần cổ chân. Một bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Xơ Đăng gồm có: áo, váy và tấm choàng (khăn vai). Áo là kiểu áo chui đầu, không có tay. Tấm choàng hay còn gọi là khăn vai của phụ nữ Xơ Đăng được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau, chủ yếu là màu đen. Phụ nữ Xơ Đăng cũng thích đeo đồ  trang sức bằng cườm đá nhiều màu sắc ở thắt lưng, cổ tay, cổ chân, đeo vòng đồng, vòng bạc trên cổ và khuyên tai. Bà Lương Thanh Sơn, Nhà nghiên cứu dân tộc Tây Nguyên, cho biết: Trang phục của đồng bào Xơ Đăng giống với trang phục với các dân tộc ở khu vực Tây Nguyên. Điểm khác là trang phục của dân tộc Xơ Đăng là nhiều họa tiết, hoa văn trên trang phục. Trong các lễ hội, trang phục của người đàn ông quấn thêm một tấm vải quấn chéo trên ngực, nhìn như một chiến binh đang ra trận. Còn những người phụ nữ mặc váy áo sát nách, khi múa thì người đàn ông nhìn mạnh mẽ, phụ nữ thì uyển chuyển, mềm mại.

Đời sống văn hóa: Người Xơ-đăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Họ có nhiều làn điệu dân ca, điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ-đăng phong phú, đặc sắc.

Ngôi nhà công cộng (nhà rông) nổi bật trong làng ở nhiều vùng người Xơ Ðăng

Người Xơ Ðăng không chỉ đan đồ mây tre rất đẹp mà còn tạo ra một số đồ dùng bằng lá như cái nón trong 

Mọi việc trong buôn làng Xơ Đăng đều do “Già làng”, người uy tín, được nể trọng và nhiều tuổi nhất trong buôn, là người điều hành các hoạt động trong làng và là đại diện cho tiếng nói của dân làng. Mỗi lần buôn làng có việc, những người dân trong làng Xơ Đăng đều quây quần trong ngồi nhà rông để bàn bạc, lắng nghe ý kiến già làng, rồi cùng chia sẻ công việc. Nhà rông được đặt ở giữa mỗi làng, không chỉ là nơi để đồng bào nghỉ ngơi, vui chơi, giao lưu, tiếp khách, mà còn là nơi trưng bày các các đồ vật liên quan đến cuộc sống của dân làng như cồng chiêng, các pho tượng thờ tổ tiên.

Những bài viết liên quan

Lịch trình mẫu